Trang. BÁO CÁO TÓM TẮT CÔNG TÁC Y TẾ NĂM 2008 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2009. 1. TRẦN CHÍ LIÊM, ĐINH THỊ PHƯƠNG HOÀ. ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC CÁN BỘ Y TẾ VÀ TRANG THIẾT BỊ TẠI TRẠM Y TẾ XÃ VỀ CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH. 2. Ngoài tổn thương tại phổi, lao kê thường có lao ngoài phổi, trong đó cần chú ý đến lao màng não, nhất là ở trẻ em và người nhiễm HIV. 7.1.4. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh: Hắc lào trên mặt trẻ em thường rất dễ để lại sẹo cho bé. Càng để lâu, hắc lào càng nặng và nhiễm trùng, cũng như bị bé cào gây lở loét. Khả năng bé bị sẹo là rất cao. Ngoài ra có 4 nguyên nhân chính các mẹ cần để ý để tránh mầm bệnh của bé bị nặng hơn. Hotline tư vấn MIỄN PHÍ : 090 706 1304 Một nghiên cứu dài ngày trên 631 trẻ em cho thấy, ở những em thường xuyên bôi kem chống nắng, nguy cơ mắc u hắc tố ác tính cao gấp đôi những em không bôi và vẫn ra nắng ở mức độ bình thường. lao động tốt, ăn ngủ bình thường. Vừa rồi cụ đo huyết áp, chỉ số Tóm tắt: Trong năm 1978 khoa Tiêu hóa BV Bạch Mai đã điều trị cho 1 BN nam, 49 tuổi, làm ruộng. Ngày 10/3/1978 nhập viện, tử vong ngày 15/5/1978. Lý do vào viện: ỉa chảy kéo dài. Khám lâm sàng lúc mới vào thấy: người gầy từ 60kg trước khi ốm, xuống còn 46kg. Ở trẻ em ngừng thở thường là hậu quả của tình trạng suy hô hấp cấp. Ngừng tim thường sau ngừng thở. Não sẽ bị tổn thương khi ngừng thở ngừng tim trên 4 phút và nếu trên 10 phút thường tử vong, nếu sống sẽ để lại di chứng não nặng nề. - 1. đói, 2 nóng nực, 3. giỡn quá trước ngủ, 4. nên uốngvitamin d, 5. hơn 1 tuổi xổ giun, 6. lớn nữa thì bớt tv game. - Trẻ sơ sinh dưới 3 tháng tuổi vặn mình và nôn trớ là vô cùng bình thường 6. Vitamin D; uống nếu không phơi nắng - Vitamin D, loại 1 giọt 400- 500 đơn vị, ngày 1 giọtaquadetrim, d flouretten, sterogyl… nhiều loại lắm. xkef8. Bệnh thường gặp ở vùng cổ, xuất hiện nhiều ở trẻ em. Các hạch viêm thông thường do thương tổn răng, miệng, mũi… là nơi vi khuẩn lao dễ dàng xâm nhập, khu trú và dẫn đến lao hạch. Đường xâm nhập của trực khuẩn lao có thể do nhiễm khuẩn lao toàn cơ thể như trong lao phổi, gây viêm hạch nhiều chỗ. Trực khuẩn lao có thể xâm nhập trực tiếp vào đường bạch huyết qua thương tổn lao ở niêm mạc miệng, hoặc từ một tổn thương thông thường do sang chấn, nhiễm khuẩn. Trực khuẩn lao qua niêm mạc miệng đi vào đường bạch huyết lao hạch tiên phát, có khi xâm nhập hệ thống bạch huyết qua niêm mạc miệng mà không để lại dấu vết gì. Biểu hiện của bệnh – Thể viêm hạch thông thường Không viêm quanh hạch, thường ở vùng dưới hàm hay cạnh cổ có một hay nhiều hạch sưng to, cứng, không đau, di động dưới da. Có thể hạch chỉ dừng ở giai đoạn này hay chuyển sang giai đoạn viêm quanh hạch. – Thể viêm hạch và viêm quanh hạch Các hạch sưng to và tụ lại thành một khối, nhiều cục dính vào sâu và vào da do viêm quanh hạch. Lúc đầu hạch cứng, không đau, sau mềm và chuyển sáng. Da trở nên loét, rò chảy mủ màu xanh nhạt, không dính, trong mủ có bã đậu lổn nhổn. Lỗ rò có bờ tím, bong ra, có thể bội nhiễm gây viêm hạch lan tỏa. Sau khi khối tổ chức hạch đã bị loại trừ hết, lỗ rò khó để lại những sẹo lồi, sùi trắng hoặc những dây chằng xơ. Trong quá trình viêm hạch lao, nói chung sức khỏe bình thường trừ trường hợp bị bội nhiễm hay kèm theo tổn thương lao phổi, xương… – Thể khối u Là viêm hạch lao phì đại. Thể này ít gặp, khối u thường ở cổ, ít được chú ý, thấy một hay vài hạch nổi to, sau dính thành một khối không đau, di động, sờ chắc và không có viêm quanh hạch. Khối u to dần, có thể bằng quả cam, chiếm gần hết vùng bên cổ. Các hạch khác dưới hàm, mang tai… cũng bị phì đại. U ở một bên nhưng có khi cả hai bên làm cho cổ như bạnh ra. Về điều trị, cần chú ý chăm sóc sức khỏe, nhất là đối với trẻ em, tránh để viêm hạch mạn tính tạo điều kiện cho trực khuẩn lao xâm nhập. Cần vệ sinh răng miệng, nhổ hoặc chữa răng sâu. Khi đã được chẩn đoán xác định là lao hạch, cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa lao, phối hợp với nâng đỡ thể trạng bằng chế độ ăn uống tốt, nghỉ ngơi hợp lý. Có thể cắt bỏ hạch đối với trường hợp u lympho lao hạch, lao không thành mủ, khu trú, di động. Lao hạch ở trẻ em thường khỏi nếu được điều trị toàn thân, lý liệu pháp, giữ vệ sinh. Không nên cắt bỏ hạch sớm ở trẻ em vì hạch có vai trò bảo vệ chống sự xâm nhập của trực khuẩn lao. Ở giai đoạn hạch áp xe lạnh sắp vỡ mủ, có thể hút mủ ra, dùng thuốc kháng sinh và tiếp tục dùng rimifon vài tháng dù không còn biểu hiện bệnh. BS Võ Thu Nga, Sức Khỏe & Đời Sống Nhận kết quả giải phẫu bệnh ung thư vú giai đoạn sớm, chị Hân quyết định phẫu thuật với hy vọng còn cơ hội về nhà để chăm sóc các bé. Chị Trần Ngọc Hân 51 tuổi, Sóc Trăng cho biết cách đây 3 năm phát hiện cả hai vú có u lành tính, được điều trị bằng hút chân không VABB tại một bệnh viện ở TP HCM, sau đó, tái khám định kỳ mỗi 6 tháng. Một tháng nay, thỉnh thoảng, chị thấy hai bên vú lại đau. Nhiều người khuyên chị đắp lá cây, uống thuốc nam... sẽ ít tác dụng phụ, lại rẻ tiền. Tuy nhiên, chị quyết định đến bệnh viện khám để được điều được thạc sĩ, bác sĩ Huỳnh Bá Tấn khoa Ngoại Vú, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM thăm khám các vùng của hai bên vú. Khi khám ở vùng vú trái, bác sĩ cảm nhận một mảng có mật độ hơi chắc hơn xung quanh. Nghi ngờ có bất thường, bác sĩ chỉ định siêu âm và chụp nhũ ảnh để đưa ra kết luận chính xác. Bác sĩ Tấn dùng bút đánh dấu vào vị trí nghi ngờ để cảnh báo các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh chú ý kỹ hơn vào vùng ngoài dự đoán, siêu âm cho thấy có vùng xáo trộn cấu trúc, còn trên nhũ ảnh là đám vôi hóa lan tỏa tương ứng với vùng đã đánh dấu. Kết luận vú trái có tổn thương được xếp hạng BIRADS 4A. Bác sĩ Tấn giải thích, đây là những tổn thương có nguy cơ ác tính ở mức độ thấp. Cứ 100 người có kết quả khám vú theo phân loại BIRADS 4A chỉ có 2-10 người bị ung thư hội chẩn với siêu âm và nhũ ảnh, bác sĩ Tấn cho chỉ định chọc hút tế bào bằng kim nhỏ FNA dưới sự hướng dẫn của đầu dò siêu âm. Sau 24 tiếng, chị Hân nhận kết quả tổn thương dạng nhú, khả năng u ác tính là 20% và bác sĩ đề nghị mổ sinh thiết khối u để có chẩn đoán cuối cùng. Sau khi xem xét kết quả, bác sĩ xác định u nhú lành tính nhưng có kèm thành phần ung thư tại chỗ DCIS. Song nhờ bác sĩ mổ lấy đủ rộng xung quanh khối u nên rìa bệnh phẩm không còn tế bào ác tính. Thạc sĩ, bác sĩ Huỳnh Bá Tấn thứ 2 bên phải cùng êkíp bác sĩ khoa Ngoại Vú phẫu thuật cho người bệnh. Ảnh Nguyễn Trăm Bác sĩ Tấn giải thích, ung thư tại chỗ là ung thư giai đoạn 0, tiên lượng khỏi bệnh gần như 100%. Với ung thư vú giai đoạn này, người bệnh có hai lựa chọn điều trị là chiếu tia phóng xạ vào tuyến vú và hạch nách để phòng ngừa tái phát hoặc phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú và sinh thiết hạch gác cửa. Sinh thiết hạch gác cửa là một kỹ thuật mới nhằm đánh giá chính xác hạch nách có bị di căn hay không, từ đó, bác sĩ mới quyết định nạo hạch nách để tránh biến chứng phù tay cho bệnh nhân. Kỹ thuật này không phải nơi nào cũng thực hiện được. Tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, các bác sĩ khoa Ngoại Vú thực hiện kỹ thuật này cho tất cả bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm để giảm biến chứng phù tay, tê tay, hạn chế vận động cánh tay cho bệnh muốn được điều trị sớm trở về chăm sóc các bé, chị chọn phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú và sinh thiết hạch gác cửa. Dù được bác sĩ tư vấn tái tạo lại tuyến vú ngay trong cuộc mổ cắt bỏ vú để giữ lại nét đẹp hình thể nhưng chị từ chối vì muốn thời gian hồi phục nhanh kể, hơn 50 năm trước, chị bị người thân bỏ rơi trước cửa cơ sở chăm sóc trẻ em mồ côi. Lớn lên trong tình yêu thương của cộng đồng, chị càng yêu thương, đồng cảm với những bé mồ côi. Mỗi ngày, chị đều mong có sức khỏe để tiếp tục công việc chăm sóc các 10/5, trong cuộc phẫu thuật, bác sĩ lấy các hạch nách để gửi xét nghiệm ngay. Ê kíp tiếp tục cắt bỏ toàn bộ tuyến vú trái. Kết quả xét nghiệm cho thấy, hạch nách không di căn. Bệnh nhân không cần phải nạo hạch nách nên ít có rủi ro bị phù tay sau này. Với sự hỗ trợ của máy móc hiện đại, cuộc mổ hoàn thành trong một tiếng. Theo các bác sĩ, bệnh nhân được chẩn đoán kịp thời, điều trị sớm nên ít để lại di khi tỉnh dậy, chị vui mừng vì vẫn còn cơ hội về nhà với các con. Suốt hơn 20 năm nay, chị vừa làm mẹ, làm cha và là người thân của các bé bị bỏ rơi. Ru con những trưa oi ả, dỗ con khóc giữa đêm khuya, tập con nói những tiếng đầu đời... đều trở thành niềm vui, hạnh phúc của chị. Chị tâm sự công việc có vất vả nhưng nhìn các con trưởng thành, lớn lên mỗi ngày, chị lại có thêm động lực để cố bác sĩ Tấn, ung thư vú ở giai đoạn chưa có biểu hiện lâm sàng thường khó chẩn đoán nhưng điều trị thường nhanh chóng và thuận lợi. Hiệp hội Ung thư Mỹ dẫn chứng, người ung thư vú giai đoạn 0 được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có tỷ lệ sống 5 năm gần 100%. Ngược lại, khi bệnh đã có biểu hiện trên lâm sàng, ví dụ như sờ thấy khối u trong vú thì chẩn đoán dễ nhưng quá trình điều trị phức tạp và lâu dài. Do đó, bác sĩ khuyên chị em phụ nữ nên đi tầm soát ung thư vú định kỳ hàng năm ở những cơ sở y tế có đầy đủ các phương tiện chẩn đoán hiện đại như siêu âm vú, nhũ ảnh, MRI An* Tên bệnh nhân đã được thay đổi. Hiện nay, chẩn đoán bệnh lao ở trẻ em còn gặp nhiều khó khăn do triệu chứng không đặc trưng và các xét nghiệm cận lâm sàng phát hiện vi khuẩn lao với tỷ lệ thấp. Điều trị trẻ bị bệnh lao cần được tiến hành đúng phác đồ điều trị và càng sớm càng tốt. 1. Tổng quan về bệnh lao ở trẻ em Lao ở trẻ em không phải là một bệnh hiếm gặp trên lâm sàng. Số ca trẻ bị bệnh lao mỗi năm chiếm khoảng 15% tổng số các ca mới. Trẻ bị bệnh lao có thể có biểu hiện của mọi thể lao tương tự như ở người lớn, tuy nhiên phổ biến nhất là lao sơ nhiễm, lao phổi, lao màng phổi, lao màng não cấp tính và một số thể lao ngoài phổi như lao xương, lao màng bụng, lao hạch, lao ruột ... Mỗi thể lao có những biểu hiện lâm sàng khác nhau, xảy ra ở những độ tuổi khác nhau, mức độ nặng thay đổi phụ thuộc vào cơ địa của trẻ bị bệnh lao, đáp ứng điều trị và lượng vi khuẩn gây đối tượng dễ mắc bệnh là các trẻ nhỏ chưa tiêm vắc-xin phòng bệnh lao. Tần suất mắc bệnh lao ở trẻ em giảm dần theo tuổi nhờ đáp ứng miễn dịch tạo ra sau khi tiêm phòng đầy đủ. Cần ghi nhớ rằng, cơ thể trẻ cần có thời gian đáp ứng để sản xuất kháng thể bảo vệ, vì thế sau khi cho trẻ tiêm phòng, phụ huynh không được chủ quan và cần bảo vệ trẻ khỏi những yếu tố nguy cơ hay nguồn lây nhiễm bệnh lao. Vắc-xin tiêm phòng bệnh lao BCG Triệu chứng lâm sàng thường thấy khi trẻ bị bệnh lao là sốt và ho kéo dài trên 10 ngày, ăn uống kém, sụt cân, dễ quấy khóc và một số biểu hiện đặc trưng có từng cơ quan bị ảnh hưởng. Vì biểu hiện tương tự như những bệnh lý khác, phụ huynh thường chủ quan, tự ý điều trị tại nhà khiến việc nhận diện và điều trị bệnh lao bị chậm trễ cũng như tăng tỷ lệ lây nhiễm cho cộng đồng. Trẻ bị bệnh lao trên 5 tuổi có khả năng lây nhiễm cao hơn vì thực hiện được các động tác khạc nhổ, giải phóng vi khuẩn ra môi trường bên ngoài. Bệnh lao ở trẻ em nếu không được điều trị sớm có thể dẫn đến nhiều biến chứng nặng nề cho trẻ như biến dạng cột sống, điếc, mù, động kinh, liệt hay thậm chí tử vong, tùy theo từng thể lao và biến chứng của nó. Bệnh lao ở trẻ em là bệnh có thể dự phòng được và tiêm vắc-xin phòng bệnh lao là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả nhất. 2. Một số thể lao ở trẻ em Lao sơ nhiễmĐây là thể lao thường gặp nhất, nhất là ở nhóm các trẻ dưới 5 tuổi và không được tiêm vắc-xin phòng bệnh lao. Lao sơ nhiễm thường không biểu hiện triệu chứng lâm sàng hoặc chỉ có các dấu hiệu thoáng qua như sốt nhẹ kèm mệt mỏi. Biểu hiện lâm sàng mơ hồ khiến lao sơ nhiễm tuy phổ biến trong cộng đồng nhưng rất dễ bị bỏ sót. Tiền sử tiêm chủng không đầy đủ là dấu hiệu gợi ý rất có giá trị, giúp phát hiện bệnh lao ở trẻ trong nhiều trường hợp. Một số trẻ bị bệnh lao sơ nhiễm có thể tự khỏi nếu sức đề kháng tốt. Lao sơ nhiễm thường xảy ra ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi Lao màng nãoĐây là một thể lao cấp tính nặng nề, tiến triển từ lao sơ nhiễm khi vi khuẩn lao lan tràn theo đường máu đến hệ thần kinh trung ương. Biến chứng của lao màng não thường nghiêm trọng và tồn tại kéo dài trong suốt phần đời còn lại của trẻ như động kinh, kiệt, chậm phát triển trí tuệ, thậm chí có thể tử vong. Trẻ bị lao màng não có các triệu chứng rầm rộ, xuất hiện sau khi mắc lao sơ nhiễm khoảng vài ngày đến vài tháng, bao gồm sốt cao, nhức đầu, cứng cổ, có giật, rối loạn vận nhãn, co giật, động kinh ...Lao phổiCùng với lao màng phổi, đây là thể lao đường hô hấp thường gặp ở nhóm trẻ lớn hơn 5 tuổi, nhất là những trẻ đang ở trong giai đoạn dậy thì. Trẻ bị bệnh lao phổi có thể thứ phát sau lao sơ nhiễm hoặc lây trực tiếp do tiếp xúc với những người thân trong gia đình mắc bệnh lao. Lao phổi sau lao sơ nhiễm thường mất nhiều tháng mới xuất hiện triệu chứng. Biểu hiện lâm sàng của lao phổi ở trẻ có nhiều điểm tương đồng với bệnh lao ở người lớn như sốt nhẹ về chiều, sụt cân, ho đờm kéo dài có thể có máu, tức ngực. Quy trình chẩn đoán bệnh lao phổi ở trẻ em được thực hiện bằng việc kết hợp giữa các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm tìm vi khuẩn lao trong đàm hoặc dịch dạ dày trong 3 mẫu được lấy cách nhau ít nhất 1 ngày bằng soi tươi và nuôi cấy tìm vi ngoài phổiĐây là biến chứng thường xảy ra muộn nhất sau lao sơ nhiễm. Lao ngoài phổi rất đa dạng với nhiều thể khác nhau như lao cột sống, lao hạch, lao màng bụng, lao tiết niệu, lao ruột ... Trẻ có thể mắc cùng lúc nhiều thể lao ngoài phổi khác nhau hoặc đồng mắc lao phổi và lao ngoài phổi. Triệu chứng lâm sàng phong phú tùy thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng. Đau và biến dạng cột sống gặp trong lao cột sống. Sưng đau tinh hoàn và tiểu máu gặp trong lao cột sống. Sưng hạch nhiều vị trí trong cơ thể có ở lao hạch. Lao cột sống khiến người bệnh bị chấn thương và cong vẹo cột sống 3. Dấu hiệu nhận biết trẻ bị bệnh lao Triệu chứng lâm sàng ở trẻ bị bệnh lao thường rất phong phú và biến thiên. Trẻ bị bệnh lao có thể có những biểu hiện rõ, rầm rộ trong những thể lao cấp tính như lao màng não và lao kê. Ngược lại trẻ mắc lao sơ nhiễm lại có những biểu hiện lâm sàng rất mơ hồ hoặc thậm chí không có bất kỳ dấu hiệu gợi ý nào. Lao phổi và lao màng phổi có các biểu hiện gợi ý liên quan đến các tổn thương tại đường hô hấp như ho, khạc đờm máu, tức ngực, khó thể lao ngoài đường hô hấp có những biểu hiện khác nhau tùy từng cơ quan bị ảnh hưởng. Tóm lại, triệu chứng lâm sàng của bệnh lao đa dạng nhưng không đặc hiệu, và rất dễ nhầm với các bệnh lý khác. Việc tiêm phòng không đầy đủ và tiền sử có tiếp xúc với những người nghi mắc bệnh lao hoặc bị bệnh lao là những yếu tố có tính chất gợi ý và định hướng có giá trị trong việc nhận diện và chẩn đoán bệnh lao ở trẻ em. 4. Chẩn đoán lao ở trẻ em Chẩn đoán chính xác các trường hợp trẻ bị bệnh lao cần dựa vào các xét nghiệm cận lâm sàng thay vì các biểu hiện lâm sàng của bệnh không đặc trưng, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Mẫu bệnh phẩm từ đàm, dịch tiết hô hấp hoặc dịch dạ dày hay những bệnh phẩm từ các cơ quan nghi ngờ khác được đem đi soi tươi và nuôi cấy tìm vi khuẩn lao. Mẫu bệnh phẩm phải được lấy đủ 3 lần ở 3 ngày khác nhau liên tục. Khi xét nghiệm dương tính, chẩn đoán bệnh lao ở trẻ em được xác định. Xét nghiệm bệnh phẩm chẩn đoán lao ở trẻ Tỷ lệ tìm thấy vi khuẩn lao khi thực hiện xét nghiệm không cao. Chụp phim XQ phổi được chỉ định khi nghi ngờ trẻ mắc thể lao phổi hoặc lao màng phổi. Các tổn thương của bệnh lao trên phim chụp phổi có thể bao gồm các tổn thương dạng nốt, đám thâm nhiễm, các hang ở đỉnh phổi và các tổn thương tại màng phổi. 5. Các phương pháp điều trị bệnh lao ở trẻ em Nguyên tắc điều trị bệnh lao ở trẻ em tương tự như việc điều trị bệnh lao ở người lớn. Phác đồ điều trị phối hợp giữa các thuốc kháng lao trong thời gian dài chiếm vai trò chính. Thời gian điều trị để đạt hiệu quả kéo dài khoảng 6 đến 9 tháng liên tục. Thuốc uống phải được sử dụng đúng liều và tuân thủ theo phác đồ của bác sĩ. Hiệu quả của việc điều trị bệnh lao ở trẻ em phụ thuộc nhiều vào giai đoạn bệnh. Bệnh lao ở trẻ em được phát hiện sớm, khi chưa có biến chứng hoặc chưa lây lan đến các hệ cơ quan khác có tiên lượng tốt nhi tại hệ thống Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ tiếp nhận và thăm khám các bệnh lý mà trẻ sơ sinh cũng như trẻ nhỏ dễ mắc phải sốt virus, sốt vi khuẩn, viêm tai giữa, viêm phổi ở trẻ,... Với trang thiết bị hiện đại, không gian vô trùng, giảm thiểu tối đa tác động cũng như nguy cơ lây lan bệnh. Cùng với đó là sự tận tâm từ các bác sĩ giàu kinh nghiệm chuyên môn với các bệnh nhi, giúp việc thăm khám không còn là nỗi trăn trở của các bậc cha hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline TẠI ĐÂY để được hỗ đề xuất Vì sao cần tiêm phòng Lao cho trẻ sơ sinh XEM THÊM Bệnh lao kháng thuốc có chữa được không? Lao kháng thuốc xảy ra khi nào và có nguy hiểm? Lao phổi đã điều trị khỏi có thể tái phát không? Các triệu chứng bệnh hắc lào ở trẻ em Bệnh hắc lào được phân loại dựa vào bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng. Các triệu chứng của bệnh là khác nhau tùy thuộc vào phần cơ thể bị ảnh hưởng. 1. Nấm da đầu Đây là loại bệnh hắc lào ở trẻ em phổ biến nhất. Các dấu hiệu của bệnh bao gồm Ban đầu, da đầu xuất hiện những vết ban nhỏ, màu đỏ, có vảy và bắt đầu ngứa. Sau đó, vết phát ban sẽ tăng kích thước và sần lên theo hình vòng tròn và cơn ngứa cũng dữ dội hơn. Tóc tại chỗ bị hắc lào sẽ rụng. Nếu có nhiều vùng bị hắc lào trên đầu, đầu sẽ có nhiều vùng hói hình tròn. Trẻ cũng có thể bị nứt da đầu và đôi khi các vết nứt có thể bị nhiễm trùng. Đôi khi, da đầu xuất hiện những mảng u hạt có mủ do nếu bị viêm nặng. 2. Nấm da chân và tay Hắc lào ở da chân và tay có những triệu chứng như sau Thông thường, nấm sẽ ảnh hưởng tới các kẽ ngón chân giữa ngón chân thứ ba và ngón thứ tư cũng như ngón thứ tư và thứ năm. Các triệu chứng đầu tiên là da bé xuất hiện một mảng màu trắng đỏ, ẩm và ngứa. Mảng này thường ở giữa các ngón chân hay ngón tay. Bàn chân hay bàn tay của bé xuất hiện vảy. Các vảy và mảng đỏ trở nên ngứa. Bạn có thể thấy mụn nước gây ngứa ở lòng bàn chân nếu bé bị nấm da chân. Đôi khi, chứng nhiễm trùng có thể bắt đầu từ lòng bàn chân chứ không phải giữa các ngón chân. Chứng nấm da chân thường gặp ở các trẻ độ tuổi thiếu niên hơn ở trẻ em trước tuổi dậy thì. 3. Nấm da toàn thân và mặt Đối với da toàn thân và da mặt, bệnh hắc lào ở trẻ em thường có những dấu hiệu sau Vùng bị hắc lào thường có dạng vòng tròn với vùng da ở trung tâm lành lặn. Trong trường hợp trẻ bị hắc lào ở mặt, nấm có thể xuất hiện xung quanh mắt, mí mắt và dưới tai. Đường kính của vết hắc lào có thể to ra khi nấm lan rộng. Tuy nhiên, vùng da ở trung tâm của vết này thường không bị ảnh hưởng. Vết nấm sẽ ngứa và bạn cũng có thể thấy da bị bong tróc thành các mảng trắng ở rìa vòng hắc lào. 4. Nấm bẹn Tình trạng nấm bẹn thường có một số dấu hiệu như sau Hai bên bộ phận sinh dục có các mảng da nhỏ bị ửng đỏ và những mảng này dần nặng hơn. Các vết tổn thương chủ yếu tập trung quanh các nếp da ở bẹn. Mảng da bị đỏ sẽ lan rộng và gây ngứa. Những mảng này có viền đỏ, hiện rõ và có vảy. Hắc lào thường không xuất hiện trên bộ phận sinh dục. Trong một số tình huống hiếm gặp, nấm xuất hiện trên da bìu ở các bé trai. Nấm bẹn phổ biến nhất ở các bé trai tuổi vị thành niên. Bệnh này cũng phổ biến hơn ở những người béo phì, những người đổ mồ hôi quá nhiều và mặc quần áo bó sát. 5. Nấm móng tay Bệnh nấm móng tay có biểu hiện khác với các loại nấm da khác. Móng tay dày lên và có những mảng màu vàng. Móng có thể trở nên giòn và bong tróc. Các mảng lan rộng ra phần thịt dưới móng. Các mảng màu vàng dần trở thành màu xám nhạt. Nấm móng tay ít phổ biến hơn ở trẻ em trước tuổi dậy thì và chủ yếu gặp ở thanh thiếu niên. Chứng này thường xuất hiện cùng chứng nấm da tay hay da chân. Cách chẩn đoán bệnh hắc lào ở trẻ em Bác sĩ có thể sử dụng các phương pháp chẩn đoán bệnh hắc lào ở trẻ như sau Kiểm tra bằng mắt thường Thông thường, bác sĩ có thể chẩn đoán bệnh hắc lào bằng cách nhìn vào hình dạng và vị trí của vùng da bị tổn thương. Ngoài ra, bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng bé gặp các trường hợp viêm da bé từng gặp. Bạn cũng có thể cho bác sĩ biết con có chơi với thú cưng hay tham gia các môn thể thao có tiếp xúc da không. Kiểm tra mẫu da Các triệu chứng của bệnh hắc lào thường trùng với các bệnh về da khác như chàm và nhiễm nấm Candida. Do đó, bác sĩ có thể lấy một lượng nhỏ da từ vết thương để xét nghiệm nhằm xác định nguyên nhân gây bệnh. Việc lấy mẫu da sẽ không đau. Cách điều trị bệnh hắc lào ở trẻ em Ba mẹ có thể tham khảo một số loại thuốc thường được sử dụng để điều trị bệnh hắc lào như sau Thuốc chống nấm bôi ngoài da Hầu hết các trường hợp mắc bệnh hắc lào đều có thể điều trị được bằng cách sử dụng thuốc chống nấm bôi ngoài da dạng kem hoặc bột. Các hợp chất chống nấm phổ biến là miconazole, clotrimazole và tolnaftate. Bé sẽ phải bôi thuốc mỡ hoặc thuốc bột 2-3 lần/ngày trong vài tuần. Những bé bị hắc lào ở da đầu cần dùng dầu gội thuốc có chứa các hợp chất chống nấm. Thuốc chống nấm dạng uống Thuốc chống nấm dạng uống được sử dụng đặc biệt trong trường hợp hắc lào xuất hiện ở da đầu, tóc và móng tay. Bé sẽ phải dùng loại thuốc này khi có quá nhiều vết nấm trên cơ thể hoặc khi nấm quá khó chữa như khi bị nấm móng tay. Thuốc chống nấm dạng uống thường có hiệu lực mạnh hơn thuốc chống nấm dạng bôi và có thể gây ra tác dụng phụ khi dùng quá liều. Do đó, bạn chỉ nên cho bé dùng thuốc chống nấm dạng uống theo đơn của bác sĩ. Các hợp chất chống nấm dạng uống phổ biến là griseofulvin, terbinafine, fluconazole và itraconazole. Bác sĩ cũng có thể kê thêm các loại thuốc khác như xà phòng trị nấm và kem dưỡng da có thuốc để giảm sự lây lan của bệnh. Bệnh hắc lào ở trẻ em kéo dài bao lâu? Bệnh hắc lào có thể hết sau 1 tuần đến 3-4 tuần kể từ khi bắt đầu dùng thuốc. Bệnh này thường không kéo dài hơn một tháng kể từ khi bé bắt đầu điều trị. Những bé có các vấn đề về miễn dịch như những trẻ có HIV, ung thư có thể bị nhiễm trùng lâu hơn. Bệnh hắc lào không để lại biến chứng và khi điều trị xong bệnh này, trẻ sẽ lại có làn da khỏe mạnh. Cách chữa bệnh hắc lào ở trẻ em tại nhà Có một số biện pháp chữa hắc lào tại nhà là dùng giấm táo, dầu tràm trà, dầu dừa và sốt tỏi bôi lên vết nấm. Tuy có bằng chứng cho thấy những nguyên liệu có đặc tính chống nấm nhưng lại không có nghiên cứu nào chứng minh được những tác nhân này có thể loại bỏ nấm hoàn toàn. Vậy nên, hiện không có phương pháp điều trị bệnh hắc lào ở trẻ em tại nhà nào hiệu quả. Đặc biệt, những phương pháp chữa trị tại nhà này có thể ảnh hưởng tới thuốc chữa nấm. Vậy nên, bạn hãy tránh các cách chữa trị tại nhà này nếu con đang chữa trị bằng thuốc. Bên cạnh đó, bạn cũng nên tránh cho con tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh để quá trình chữa trị nhanh chóng hơn. Cách ngừa bệnh hắc lào ở trẻ em Việc phòng ngừa bệnh hắc lào ở trẻ em không quá khó. Bạn có thể tham khảo một số cách sau Giữ gìn vệ sinh tốt cho con Trẻ bị hắc lào thường do vệ sinh cá nhân kém. Vậy nên, cách phòng ngừa hắc lào đầu tiên là nhắc nhở bé luôn giữ vệ sinh cơ thể thật tốt. Ngoài ra, bạn hãy thay drap trải giường của con mỗi tuần một lần để ngăn bào tử nấm bám vào. Dạy con không dùng chung đồ dùng cá nhân Bạn hãy dạy bé không dùng chung những đồ cá nhân như quần áo, khăn tắm, lược chải đầu… Tránh tiếp xúc với vết hắc lào của người khác Bạn cần nhắc nhở bé không chạm vào vết thương lạ trên cơ thể người khác. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các bé đã đi nhà trẻ và đi học. Thường xuyên kiểm tra sức khỏe thú cưng Bên cạnh việc giữ vệ sinh nhà cửa, bạn cũng cần kiểm tra sức khỏe thú cưng thường xuyên vì chúng có thể mang mầm bệnh hắc lào. Hãy thường xuyên kiểm tra da vật nuôi và đưa thú cưng đi khám nếu có dấu hiệu nghi ngờ. Cho trẻ mặc quần áo phù hợp Khi thời tiết nóng và ẩm ướt, bạn hãy cho trẻ mặc quần áo rộng rãi, thoải mái làm từ sợi tự nhiên như cotton để da bé được thông thoáng. Bạn cũng cần đảm bảo đồ lót của bé được vừa vặn. Nếu trẻ bị ướt mưa, hãy yêu cầu trẻ thay quần áo ngay để tránh tạo môi trường ẩm ướt cho nấm lây lan. Kiểm soát mồ hôi của trẻ Mồ hôi, đặc biệt là mồ hôi ở các nếp gấp của da, là môi trường thích hợp cho nấm phát triển. Bạn có thể cho trẻ sử dụng phấn rôm ở những phần dễ đổ mồ hôi như dưới cánh tay và bẹn. Hầu hết các loại phấn rôm đều có đặc tính kháng khuẩn và kháng nấm nên có thể giúp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh hắc lào. Bé có thể mắc bệnh hắc lào nhiều lần vì cơ thể không phát triển bất cứ kháng thể nào chống lại nấm. Tuy nhiên, bạn có thể giúp bé phòng bệnh bằng những cách kể trên. Bệnh hắc lào ở trẻ em tuy không nguy hiểm nhưng khá khó phòng ngừa vì các bé hiếu động nên dễ tiếp xúc với các tác nhân mang mầm bệnh. Ba mẹ hãy chú ý bảo vệ con khỏi những tác nhân này để duy trì sức khỏe cho bé nhé. Bệnh lao hạch là thể lao ngoài phổi còn gặp khá phổ biến ở nước ta và bệnh lao hạch ở trẻ em đang có xu hướng tăng mạnh. Lao hạch ngoại biên là thể lao thường gặp nhất với các vị trí như hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn. Ngoài ra bệnh lao hạch có thể gặp ở các hạch ở các hạch ở nội tạng như hạch trung thất, hạch mạc treo… Trước khi tìm hiểu bệnh lao hạch có lây không, bệnh lao hạch có nguy hiểm không, cần khẳng định rằng đây là bệnh ít nguy hiểm, không gây tử vong, có thể chữa khỏi nhưng khá phổ biến và diễn biến kéo dài. Tuy nhiên bệnh lao hạch gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt, thường để lại nhiều di chứng, sẹo dị dạng gây mất thẩm mỹ nên người bệnh không nên chủ quan. Hiện nay, có hai thể lao hạch phổ biến lao hạch khí phế quản chỉ gặp ở trẻ em và lao hạch ngoại vi phổ biến ở mọi lứa tuổi. Bệnh lao hạch thường xuất hiện ở thanh thiếu niên, nữ giới mắc lao hạch cao gấp 2 lần nam giới. Trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh lao hạch cũng tương đối lớn và xuất hiện ở mọi đối tượng như ở Việt Nam. Bệnh thường gặp ở vùng cổ, xuất hiện nhiều ở trẻ em. Tác nhân gây bệnh lao hạch là trực khuẩn lao, phổ biến nhất là Mycobacterium tuberculosis. Các hạch viêm ngoại vi là vị trí mà vi khuẩn lao dễ dàng xâm nhập, khu trú và dẫn đến lao hạch. Trực khuẩn lao có thể xâm nhập trực tiếp vào đường bạch huyết qua thương tổn ở niêm mạc miệng, hoặc do sang chấn, nhiễm khuẩn hoặc bệnh có thể do nhiễm khuẩn lao toàn cơ thể như trong lao phổi, gây viêm hạch nhiều chỗ. Khi bị lao hạch, người bệnh có biểu hiện chính là sưng to một hoặc nhiều hạch. Hạch tăng kích thước dần dần nên người bệnh thường không biết rõ hạch xuất hiện từ thời điểm nào. Hạch to dần, không đau, mật độ chắc, bề mặt nhẵn, da vùng hạch sưng to không nóng, không tấy đỏ. Thường thấy nhiều hạch cùng bị sưng, tập hợp thành một chuỗi, cũng có khi chỉ gặp một hạch đơn độc vùng cổ sưng to. Hạch lao phát triển qua 3 giai đoạn sau Giai đoạn đầu hạch bắt đầu sưng to, không đều nhau di động còn dễ vì chưa dính vào nhau và chưa dính vào da. Bệnh có thể chỉ dừng ở giai đoạn này hoặc chuyển sang giai đoạn viêm hạch và viêm quanh hạch. Giai đoạn sau gọi biểu hiện viêm hạch và viêm quanh hạch. Lúc này các hạch lớn hơn, do có viêm các tổ chức quanh hạch nên có thể dính với nhau thành mảng hoặc chuỗi, hoặc dính vào da và các tổ chức xung quanh làm hạch hạn chế di động. Giai đoạn nhuyễn hóa các hạch mềm dần, sờ thấy lùng nhùng, da vùng hạch sưng tấy đỏ, không nóng và không đau, có thể thấy đỉnh mũ. Khi đã hóa mủ hạch dễ vỡ tạo những lỗ rò lâu liền, miệng lỗ rò tím ngắt và tạo thành sẹo nhăn nhúm, lồi hoặc những dây chằng xơ gây mất thẩm mỹ. Mủ chảy ra thường có màu xanh nhạt, không dính, trong mủ có bã đậu lổn nhổn. Trong quá trình mắc bệnh lao hạch, tổng trạng không bị ảnh hưởng nhiều, đôi khi có sốt nhẹ hay mệt mỏi. Ngoại trừ bị bội nhiễm hay kèm theo tổn thương lao ở các cơ quan khác như phổi, xương... Triệu chứng toàn thân sẽ biểu hiện nặng nề hơn. Bệnh lao hạch ở thể khối u hay còn gọi là viêm hạch lao phì đại thường có biểu hiện xuất hiện khối u ở cổ, thấy một hay vài hạch nổi to, sau dính thành một khối, không đau, không đỏ, di động, sờ chắc. Khối u to dần, chiếm gần hết vùng cổ làm biến dạng cổ bệnh nhân. Các hạch ở những nơi khác như dưới hàm, mang tai... Cũng bị phì đại. Viêm hạch lao phì đại thường rất khó điều trị dứt điểm. Thể bệnh này rất ít gặp. Không giống với lao phổi, trong bệnh lao hạch vi khuẩn lao chỉ khu trú trong hạch viêm, không rò rỉ ra bên ngoài nên bệnh lao hạch không lây trực tiếp từ người sang người, đặc biệt là những người trực tiếp chăm sóc người bị bệnh lao hạch. Như vậy bệnh lao hạch không phải là một bệnh lây nhiễm. Tuy nhiên, cách điều trị lao hạch cũng tương tự lao phổi là chủ yếu dùng phương pháp nội khoa như dùng các loại thuốc điều trị theo các giai đoạn để ức chế dẫn đến tiêu diệt vi khuẩn lao. Nhìn chung, bị lao hạch cần đi khám và áp dụng đúng chỉ định điều trị, không ảnh hưởng đến những người xung quanh. Để phòng bệnh lao hạch, cần tuân thủ Nâng cao sức đề kháng, chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, nghỉ ngơi hợp là đối với trẻ em, Cần vệ sinh răng miệng, nhổ hoặc chữa răng sâu. Khi đã được chẩn đoán là lao hạch, cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa lao để điều trị dứt điểm, tránh để vi khuẩn lao xâm nhập và gây bệnh ở những cơ quan khác. Chẩn đoán xác định Dựa vào biểu hiện lâm sàng và một số xét nghiệm như Chọc hạch làm xét nghiệm tế bào Sinh thiết hạch chẩn đoán mô bệnh Cấy BK X quang phổi Chẩn đoán phân biệt Viêm hạch cấp hoặc mạn tính do vi khuẩn hoặc virus là chẩn đoán cần phân biệt hàng đầu. Nếu sưng nóng, đỏ, sờ đau, mật độ mềm và đáp ứng với điều trị kháng sinh thì đó là hạch viêm do nhiễm khuẩn Bệnh Hodgkin và Non-Hodgkin sinh thiết hạch và làm tủy đồ giúp phân biệt Hạch di căn ung thư sinh thiết hạch và biểu hiện lâm sàng của ung thư nguyên phát Các u lành tính u mỡ, u xơ, u thần kinh, u nang bạch huyết,... Bệnh lao hạch có chữa khỏi không? Nhìn chung bệnh lao hạch dễ điều trị hơn các bệnh lao khác. Các phương pháp điều trị bệnh lao hạch bao gồm Điều trị nội khoa Nguyên tắc tương tự như khi điều trị bệnh lao nói chung. Cần phối hợp các thuốc chống lao, ít nhất từ 3 thuốc trở gian điều trị lao hạch có thể kéo dài từ 4-12 tháng tùy thể bệnh và đáp ứng của từng bệnh nhân. Lao hạch ở trẻ em thường đáp ứng tốt khi kết hợp việc dùng thuốc với giữ gìn vệ sinh trong sinh hoạt như vệ sinh răng miệng, nhổ hoặc chữa răng sâu. Ở giai đoạn hạch hóa mủ và sắp vỡ, có thể hút mủ chủ động để tránh tạo đường dò hoặc sẹo xấu, dùng thuốc kháng sinh và tiếp tục dùng rimifon vài tháng dù không còn biểu hiện bệnh. Hầu hết các thuốc điều trị lao đều gây tổn thương gan do đó nên kết hợp thêm các thuốc hay sản phẩm có tác dụng bảo vệ gan, hạ men gan. Điều trị ngoại khoa Mổ lấy toàn bộ hạch khi hạch hóa mủ nhưng không đáp ứng khi được chọc dò và điều trị kết hợp với kháng sinh hoặc trong trường hợp u lympho lao hạch, lao không thành mủ, khu trú. Tốt nhất nên điều trị lao trước khi phẫu thuật để tránh lan tràn vi khuẩn. Mổ và nạo vét sạch mủ bã đậu và đắp kháng sinh chống lao cũng là cách điều trị có hiệu quả. Không nên cắt bỏ hạch sớm ở trẻ em vì hạch có vai trò bảo vệ chống sự xâm nhập của trực khuẩn lao. Về điều trị, cần chú ý chăm sóc sức khỏe, nhất là đối với trẻ em, tránh để viêm hạch mạn tính. Xem thêm Bệnh lao hạch có chữa khỏi được không? Bệnh lao hạch không lây Lao hạch và lao phổi khác nhau thế nào?

mổ hạch lao ở trẻ em