Đến hôm rằm, lúc trăng sáng nhất, trẻ con nhà giầu đem kiệu ra rước ở Ngã Ba. Con Thiềm Thừ Tiếng trống rước to nhỏ rập rình như ngày mở hội làng. Những đèn nến, đèn lồng thắp sáng lung linh. Các kiệu ấy trở nên đẹp lạ lùng. Dòng sông mới điệu làm sao Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha Trưa về trời rộng bao la Áo xanh sông mặc như là mới may Chiều trôi thơ thẩn áng mây Cài lên màu áo hây hây ráng vàng Đêm thêu trước ngực vầng trăng Trên nền nhung tím trăm ngàn sao lên Khuya rồi sông mặc áo đen Nép trong rừng bưởi, lặng yên đôi bờ. Trời sáng mờ mờ. Trâu bò con đứng, con nằm, thi nhau quai hai hàm răng nhai trầu suông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái trứng. Thợ cày khắp lượt dùng bắp cày, vai cày làm ghế ngồi, cùng nhau bàn tán bâng quơ về chuyện sưu thuế. Hôm ấy,trời mưa to.Thy tan học về nhà.Cô phi trên xe băng qua những con đường quen thuộc.Dự tính về nhà nhưng nghĩ lại vẫn chưa múôn lắm nên về lúc này.Thy quẹo hẳn sang một con đường mới-đi dạo trong mưa.Gánh hàng rong bên đường nghi ngút mùi thơm,không cưỡng lại Thy Một hôm tấm đá nứt ra, sinh một trứng đá to bằng quả cầu lớn, gặp gió hóa ra con khỉ đá, đủ mặt, mũi, chân, tay. Con khỉ đá liền học cào, học chạy, vái lạy bốn phương, hai mắt có hào quang sáng rực lên tận trời làm kinh động đến Ngọc Hoàng thượng đế. Sáng hôm sau, ông lặn lội xuống tận tỉnh Tiền Giang, học hỏi kinh nghiệm và mua giống về trồng. Vụ sau ông trồng tăng diện tích lên 1.000m2; một năm sau ông trồng diện tích lên 3.000m2. Ông Đi cho hay: Khâu chọn gừng để làm giống rất quan trọng, chọn giống gừng tàu lá 1"Cảm nhận của anh/chị về bức tranh gia đình Tràng trong đoạn văn sau: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. oOZi. Cảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ trong truyện Vợ nhặt để thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng, một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau dung chính Show Cảm nhận nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sauDàn ý cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợCảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 1Cảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 2Cảm nhận nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau - Mẫu 3Video liên quan Cảm nhận về nhân vật Tràng sau khi lấy Thị làm vợ gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ củng cố kỹ năng viết văn ngày một hay nhận nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sauDàn ý cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợCảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 1Cảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 2Cảm nhận nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau - Mẫu 3Dàn ý cảm nhận nhân vật Tràng sau khi có vợ1. Mở bàiGiới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và tâm trạng của Tràng sau khi lấy Thân bàia. Buổi sáng tỉnh dậyTrong người Tràng thấy êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, hắn vẫn ngỡ ngàng không tin rằng mình đã có ra xung quanh mình có sự thay đổi lớn vô cùng khác lạ nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót nhận thấy cô thị đảm đang, chu đáo khác hẳn với vẻ đanh đá anh thấy trước Trong bữa ăn đầu tiên khi có vợKhi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Việc lấy vợ đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống cũng như suy nghĩ của anh Tràng, từ đó mở đường cho anh đến một tương lai tươi sáng Kết bàiKhái quát lại tâm trạng của Tràng sau khi có vợ và đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật của truyện nhận về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim LânCảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 1Kim Lân là người một lòng, một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống thôn dã Phan Ngọc. Vâng, khi nhắc đến tác phẩm Vợ Nhặt nổi bật là hình ảnh nhân vật Tràng sẽ thấy rõ chính tình yêu đặt nơi quê hương quá đậm sâu đã khiến cho những lời văn của Kim Lân da diết, chân thực tái hiện về con người và nông thôn. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của nhà văn rất thành công, tâm lí của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ được Kim Lân thể hiện rất hay, đặc anh chàng ngoài 30 tuổi nhưng vẫn chưa có vợ, ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn chính là Tràng trong Vợ Nhặt. Tràng có thân hình to lớn, vạm vỡ khỏe khoắn, cặp mắt ti hí, hàm răng bạch ra, đầu trọc lóc tuy xấu xí nhưng tâm tính thì rất hiền lành, tốt bụng, thân thiện được bọn trẻ con trong làng thích. Hài hòa với ngoại hình, Tràng sống trong một căn nhà tồi tàn, lụp xụp có mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại cùng người mẹ già. Trong xã hội lúc đó những người nghèo khó được xếp vào hàng dân ngụ cư, bị kinh thường thì lúc đó Tràng là người được xem như nạn đói năm đó, Tràng đẩy xe thóc ra tình thì bắt gặp mấy chị ngồi nhặt thóc, Tràng buông lời chọc ghẹo Muốn ăn cơm trắng mấy giờ này, thì lại đây mà đẩy xe bò với anh nì Bỗng có người đàn bà đến giúp đỡ anh và liều lĩnh theo anh về nhà. Hắn đã quên cô nàng này bởi hai người chưa kịp quen nhau. Và rồi họ gặp lại nhau trong lần Tràng đẩy xe thóc lên tỉnh, trả thóc xong ngồi uống nước thì bỗng thấy người đàn bà kia bay đến mắng sa sả. Thị quá rách rưới, thân hình gầy sọp hẳn đi nên anh không nhận ra, vì bản tính tốt bụng nên anh sẵn sàng mời bánh đúc vì Thị quá đói không cần sĩ diện. Tràng nửa giỡn nửa thật buông lời thì không ngờ người đàn bà ấy tự nguyện theo về làm vợ. Mặc dù gia đình cũng đang rất nghèo đói nhưng Tràng không bận tâm, liều lĩnh chấp nhận cô gái cái đói triền miên đó, một người vừa xấu xí lại nghèo khó như Tràng không ai có thể hình dung được hắn có thể có một cách tình cờ và đầy trớ trêu, người đàn bà xa lạ đó đã xáo động cuộc sống và tâm tư khiến anh trở nên tốt đẹp hơn. Sáng hôm sau khi dẫn cô gái ấy về nhà Tràng thức dậy đầy sảng khoái. Nhìn ngắm nhà cửa tươm tất, sạch sẽ hắn phấn chấn hơn, cả mẹ cậu cũng vui mừng. Hạnh phúc đôi khi chỉ cần giản dị như thế, mặc cho gia đình đang chìm trong cảnh nghèo khó. Tràng nảy sinh cái suy nghĩ sẽ yêu thương, có trách nhiệm với gia đình, sinh con đẻ cái. Tràng tin tưởng vào một tương lai tươi sáng dù nạn đói tối tăm vẫn đang bủa ăn sáng đầu tiên trong gia đình Tràng của Thị, mọi người đều vui vẻ cười nói cùng nhau. Thị đón nhận bát cháo từ người mẹ trong vẻ ngạc nhiên, Tràng thì nhăn mặt cay đắng nuốt miếng cám đắng chát, thực trạng của nạn đói lúc bấy giờ. Nhìn ánh mắt Thị tối sầm như bao phủ lên cuộc đời Tràng. Sau đó Thị cất lời nóiTrên mạn Bắc Giang, Thái Nguyên người ta không chịu đóng thuế nữa mà họ phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Tràng biết đó là Việt Minh. Lúc này Tràng lóe lên suy nghĩ trong đầu là một đoàn người kéo nhau đi trên đê Sộp bên cạnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Trong lòng Tràng lóe lên ánh sáng của lá cờ tươi thắm của cách mạng, của những niềm hy vọng của sự đổi thay, giải phóng cuộc đời cơ cực, bi ai đầy tăm tối có Thị mặc dù thêm gánh nặng một người ăn nhưng Tràng không nhìn vào cái khổ đó mà anh luôn suy nghĩ một cách lạc quan, đầy hy vọng. Đời sống của anh Từ ngày có Thị bước vào đời sống của anh có sự vận động từ trong tăm tối nghèo đói vươn ra ngoài ánh sáng đầy hy vọng, tin đưa nghệ thuật miêu tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật không phải ai cũng thể hiện đặc biệt như Kim Lân. Giản dị, nhẹ nhàng không chút phô trương trong từng lớp ngôn từ, khẽ chạm đến người đọc, truyền tải hết nội dung nhà văn đã thể hiện. Dù là nạn đói nhưng tư tưởng nhân đạo được lồng vào tác phẩm một cách tình cờ mà rất ý nghĩa, nhân nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ - Mẫu 2Vợ Nhặt là truyện ngắn được trích trong tập truyện Xóm ngụ cư của nhà văn Kim Lân. Câu chuyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này. Đặc biệt thông qua đoạn tríchSáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải..Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất nước ta có đến 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân. Hậu quả là đến cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kì lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai nghèo khổ. Nghèo đến tột cùng cái nghèo đấy được thể hiện qua chiếc áo nâu tang, ngôi nhà thì vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. Đến cái tên của hắn cũng thể hiện sự thô kệch nghèo khó. Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một cách rất sống động hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra. Bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật vừa đi vừa nói. Hắn hay lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ thỉnh thoảng còn ngửa mặt lên trời cười hềnh cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không ai có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên đường đi đẩy xe bò trở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê baichao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không? Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ Chậc. Kệ giờ đây hắn chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lấp lánh mơ về niềm hạnh phúc tương sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị đậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cùng lối kể chuyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo lồng ghép vào trong tác nhận nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau - Mẫu 3Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu ấn của bao nhà văn, nhà thơ. Một trong số đó phải nhắc đến nhà văn Kim Lân. Với đề tài người nông dân, ông đã sáng tác ra nhiều tác phẩm gây được tiếng vang lớn. Một trong số đó phải kể đến truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật Tràng. Hình ảnh của Tràng được khắc họa rõ nét nhất khi Tràng lấy cô thị về làm là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê để nuôi thân và nuôi mẹ già. Chính vì thế, anh bị mọi người coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về. Anh có ngoại hình xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh nhiên, anh chàng lại là người có tấm lòng nhân hậu, phóng khoáng. Giữa cái nạn đói khủng khiếp ấy, anh đã không toan tính mà đón cô thị về làm vợ, nuôi thêm một miệng ăn. Nhưng cũng chính vì có vợ mà tâm lí của Tràng cũng có nhiều thay sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ Tràng đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, anh cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của mình một cách lạ lùng. Thế là từ đây Tràng đã có một gia đình, sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng anh. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Anh cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong đầu Tràng đã gợi ra sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật Tràng. Qua hình ảnh ấy đã mang cho người đọc một niềm tin rằng một ngày nào đó anh Tràng sẽ đi theo cách mạng, theo đoàn người đói để đứng lên đấu tranh, đổi thay cuộc năm tháng qua đi nhưng hình ảnh anh Tràng với những đức tính tốt đẹp vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Đồng thời, nhà văn Kim Lân cùng tác phẩm Vợ nhặt đã góp phần xây dựng nền văn học Việt Nam giàu đẹp và ý nghĩa hơn. Đề 1 Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích "Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy[..] Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Từ đó, nhận xét giá trị nhân đạo của tác phẩm. Dàn ý khái quát nhân vật Tràng I. Mở bài - Giới thiệu vài nét tác giả tác phẩm Kim Lân là nhà văn chuyên về truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lý của họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn "Vợ nhặt". Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống và niềm tin của con người Việt Nam. - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Truyện ngắn đã xây dựng thành công nhân vật Tràng qua đó thấy được chiều sâu tư tưởng nhân đạo mới mẻ sâu sắc của Kim Lân. II. Thân bài 1. Khái quát chung Hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính - "Vợ nhặt" 1954 là truyện ngắn xuất sắc của KL rút từ tập "Con chó xấu xí" 1962. Truyện được khơi nguồn cảm hứng từ nạn đói năm 1945. Qua truyện ngắn KL đã miêu tả chân thực bức tranh nạn đói đồng thời phát hiện ngợi ca tình người, khát vọng hạnh phúc và khát vọng sống mãnh liệt của người lao động trong nạn đói. - Hoàn cảnh sống của các nhân vật + Các nhân vật phải trải qua nạn đói chưa từng có trong lịch sử. + Nhưng trong đói khát tăm tối, cận kề bên miệng vực của cái chết ấy, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh sáng, hạnh phúc, tương lai. => Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này. 2. Phân tích nhân vật​ Tràng là anh nông phu nghèo khổ, kém duyên - Anh hiện lên với thân phận nghèo hèn Là dân ngụ cư bị khinh rẻ; nhà cửa thì "rúm ró" lụp xụp, rách nát, tuềnh toàng. Nghề nghiệp thấp kém, bấp bênh, chỉ là anh phu xe với đồng lương chẳng đáng là bao. - Đã vậy, anh còn có một ngoại hình thô kệch, xấu xí "Đầu trọc nhẵn", "mắt nhỏ tý lại còn gà gà", "quai hàm bạnh", "lưng to như lưng gấu". Tính cách thì ngờ nghệch, vô tư, chỉ thích chơi với trẻ con. - Nghèo khổ cộng với ngoại hình xấu xí đã khiến Tràng chẳng còn có gì để hấp dẫn. Tràng là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, cởi mở, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo – tình huống Tràng nhặt vợ. - Gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước, Tràng không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người đồng cảnh ngộ "Quần áo rách như tổ đỉa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt". Cái đói cũng khiến người con gái chẳng còn biết giữ thể diện là gì, cứ thế mà trơ trẽn, nanh nọc, thô thiển, bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường ở người đàn bà ấy. - Lòng thương đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, cởi mở, phóng khoáng, đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Đó là lòng thương người đồng cảnh ngộ, là vẻ đẹp tình người trong nạn đói. - Khi lời bông đùa của Tràng trở thành cái phao cứu sinh của người đàn bà giữa biển đời mênh mông; Tràng có "chợn", có lo lắng, có hoang mang về tương lai của mình. Nhưng lòng thương người, khát vọng được gắn bó với người đàn bà xa lạ đã khiến anh chiến thắng cả lý trí của mình, để rồi nhanh chóng trở thành chỗ dựa cho người đàn bà. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ. Tràng là người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức chăm sóc, vun vén cho hạnh phúc gia đình. - Đồng ý cưu mang người đàn bà xa lạ khiến Tràng trở nên chín chắn, biết lo lắng, quan tâm chăm sóc. Anh "bỏ tiền mua cho thị cái thúng con, trong đựng vài thứ lặt vặt". Chăm sóc từ cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Mua cho thị cái thúng là để thị tự tin hơn khi về nhà chồng, vả lại ai lại để vợ mình về nhà bằng tay không bao giờ. Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng. Hai hào dầu có thể là "hoang phí" vào lúc này, nhất là khi "chẳng có nhà nào có ánh đèn lửa". Nhưng nó mang lại giá trị tinh thần rất lớn, cho thấy, Tràng rất trân trọng giá trị của hạnh phúc, trân trọng người vợ. Với hai hào dầu phải chăng Tràng cũng muốn thắp sáng cả tương lai của mình. Điều đó cũng cho thấy, Tràng không còn hời hợt nông cạn nữa mà đã thực sự nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ. - Trên đường "dẫn dâu về nhà chồng" Tràng hiện lên với hình ảnh "mắt sáng lên lấp lánh", cái mặt "phớn phở". Tất cả đều biểu lộ niềm vui, niềm hạnh phúc lâng lâng của một con người lần đầu tiên được đón nhận tình yêu. - Khi thưa chuyện với mẹ, Tràng tạo ra không khí gia đình ấm áp, thiêng liêng. Tràng cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời. Anh khéo léo khi gọi người đàn bà xa lạ là "nhà tôi"; tránh làm vợ tổn thương bằng cách gọi mối lương duyên này là "do số". Anh cũng khéo léo "ép" mẹ mình phải chấp nhận cuộc hôn nhân. - Tràng không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó thể hiện rõ ở tâm trạng của anh vào sáng hôm sau + Tâm trạng lâng lâng hạnh phúc "Lửng lơ êm ái như vừa đi từ trong giấc mơ ra". Chuyện lấy vợ của Tràng giống như cổ tích, giống như giấc mơ nhưng là giấc mơ có thật. + Quan sát xung quanh, Tràng cảm nhận được sự thay đổi mới mẻ. Nhà cửa được bàn tay đảm đang của người vợ vun vén đã trở nên gọn gàng. Người mẹ đang giẫy những búi cỏ dại, người vợ đang quét lại cái sân. Cảnh tượng sinh hoạt gia đình bình dị khiến Tràng cảm động. + Tình cảm, suy nghĩ của Tràng có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên ở người nông phu ấy thấy yêu thương gắn bó với căn nhà; thấy cần có trách nhiệm với gia đình. Đó là những suy nghĩ chín chắn của người đàn ông trưởng thành chứ không còn là một anh Tràng ngốc ngếch, khờ khạo trước đó Trước hạnh phúc Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rẩy sống trong một cảm giác rất người "Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". Hắn đã có một gia đình Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.. ". Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người". Hai chữ "nên người" hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia đình. Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn này "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà". Hai chữ "xăm xăm" gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng "ngật ngưỡng" ở mở đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột biến không chỉ ở dáng đi mà còn là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng Từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. + Tràng trở nên lễ phép, ngoan ngoãn, luôn biết vâng lời trước mẹ là biểu hiện của lòng hiếu thảo. Điều này cũng đã được Kim Lân nhắc đến trong tác phẩm "chưa bao giờ mẹ con lại đầm ấm hòa hợp đến thế". + Tràng có niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng. Trong hình ảnh "đoàn người đói, lá cờ đỏ", tác giả Kim Lân đã gián tiếp nói về nhận thức cách mạng và nhận thức về sự đổi đời của Tràng. Tác giả dự báo, Tràng sẽ xuất hiện dưới lá cờ đó, trong đoàn người đó. Bởi muốn thay đổi được cuộc sống hiện tại, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể mang lại sự đổi đời cho những người nông dân. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại sống động, giàu cá tính. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng kể hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình. III. Kết bài Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống "Sự sống chẳng bao giờ chán nản" Xuân Diệu, chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác viết về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói. Bài làm tham khảo Thi sĩ Bàng Bá Lân đã ghi lại nạn đói khủng khiếp năm 1945 qua bài thơ "Đói" "Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương! Những thây ma thất thểu đầy đường Rồi ngã gục không đứng lên vì.. đói!" Cảnh đói kinh hoàng ấy đã in hằn trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực, "con đẻ của đồng quê Bắc Bộ". Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân – nạn nhân của cái đói, cái nghèo, qua tác phẩm "Vợ nhặt" bằng một lòng thương cảm sâu sắc. Lật từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng bởi diễn biến tâm lí nhân vật Tràng, từ đó thấy được giá trị nhân đạo của tác phẩm qua đoạn trích "Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy[..] Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về người nông dân và làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã có sự hiểu biết sâu sắc. Ông viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của dồng ruộng. Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung trong khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Qua tác phẩm "Vợ nhặt", ông đã thể hiện không khí nông thôn Việt Nam và đời sống nhân dân, tuy còn nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, tài hoa, tha thiết gắn bó với quê hương cách mạng. Nguyên Hồng nhận xét Kim Lân là nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy". Tác phẩm được viết vào năm 1954 theo "đơn đặt hàng" của Báo Văn nhân dịp kỉ niệm 10 năm cách mạng tháng Tám thành công. Tác giả đã dựa vào cốt truyện "Xóm ngụ cư" để viết thành "Vợ nhặt". Truyện được bắt nguồn từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là những con người trong nạn đói ấy. Thông qua truyện, Kim Lân muốn khẳng định "Trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng". Truyện kể trong nạn đói năm 1945, một anh tên là Tràng nhà nghèo, dân ngụ cư, không lấy được vợ. Một lần, anh kéo xe thóc lên tỉnh, một người phụ nữ đã theo anh về nhà và họ đã trở thành vợ chồng – anh "nhặt" được vợ một cách dễ dàng chỉ với vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Anh đưa vợ về ra mắt người mẹ già trong sự ngạc nhiên của mọi người vì thêm một miệng ăn trong cảnh đói khát, người chết khắp nơi. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong không gian đặc quánh mùi chết chóc và tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Hôm sau, Tràng nhận ra sự thay đổi to lớn trong cuộc sống khi mọi thứ bừa bộn đều trở nên tươm tất. Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Tràng sung sướng đắm chìm trong men say của tình yêu, hạnh phúc chờ đến khi "mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy". Dường như, anh cố ý nằm thêm, kéo dài thêm để tận hưởng dư vị ngọt ngào của niềm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được cảm nhận trong buổi sáng mùa hè chói lóa ánh mặt trời. Ta thấy như các nhà văn, thường lấy buổi sáng để miêu tả sự thay đổi, sự hồi sinh của các nhân vật. Chí phèo tỉnh dậy sau một cơn say dài giữa lúc mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc cũng rực rỡ. Chính thời điểm này đánh dấu sự hồi sinh trở lại của chí từ một con quỷ dữ của làng Vũ Đại trở về là con người lương thiện. Tràng cũng vậy, buổi sáng mùa hè chói lóa đã đánh dấu bước ngoặt cuộc đời Tràng khi sang trang mới, bằng niềm vui, niềm hạnh phúc. Chất men say ấy khiến cho Tràng cảm thấy "êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.. Có lẽ trong lòng hắn vẫn dấy lên bao câu hỏi Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Niềm hạnh phúc đó đến với chàng quá bất ngờ mà ngay đối với anh nó như là một giấc mơ. Một cảm giác mới lạ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ không nghiêm túc về mặt hình thức giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động. Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng của con người. Trong khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc ấy, hắn dường như quên tất cả, quên cả đói rét đang đeo bám, quên cả những tháng ngày tủi cực đã qua. Hạnh phúc của Tràng khiến ta nhớ đến những vần thơ đậm chất lãng mạn của thi sĩ Xuân Diệu "Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi Trong vườn thơm ngát của hồn tôi." Niềm hạnh phúc có được đến từ sự hào phóng, niềm khao khát hạnh phúc đến cháy bỏng của chàng và tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Phải chăng khi khát vọng đủ lớn, tình thương đủ ấm áp thì hạnh phúc cũng trào dâng? Quả thực "tình thương là hạnh phúc". Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Sự ngạc nhiên, xúc động của Tràng khi chứng kiến giang sơn thay đổi. Hắn chớp mắt liên tục hồi mấy cái và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì đó thay đổi mới mẻ, khác lạ. "Nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô công ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ấm áp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch". Với việc sử dụng phép liệt kê, nhà văn Kim Lân đã diễn tả cụ thể, chi tiết sự thay đổi "giang sơn" của nhà Tràng. Nếu như đêm trước, "giang sơn" nhà Tràng còn như ngôi nhà hoang, thiếu sinh khí, thiếu sự sống thì chỉ sau một đêm nó đã khoác lên mình một diện mạo mới, một sức sống mới và ngập tràn sinh khí. Dấu hiệu của sự sống, của sự hồi sinh đã hiện diện ở mọi nơi từ sân vườn cho đến nhà cửa. Qua một đêm, Tràng đã hoàn toàn thay đổi nó như là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, như một phép nhiệm màu xảy ra ngay trong tâm bão của nạn đói năm 1945. Phép nhiệm màu đó đã đến từ đôi tay, tấm lòng của người đàn bà xa lạ, có thân phận rất rẻ rúng vừa hôm qua theo không mình về làm vợ nhặt. Điều này khiến cho câu chuyện lại càng bất ngờ và xúc động biết bao nhiêu. Những cảm nhận về sự thay đổi xung quanh cho thấy Tràng đâu còn vô tâm, ngờ nghệch nữa. Hắn đã có những quan sát, nhận thức về cuộc sống, về thế giới xung quanh rất riêng và cũng rất tinh tế. Phải chăng tình yêu còn khiến cho anh dần trưởng thành? Trong Tràng còn xuất hiện những trạng thái cảm xúc vô cùng mới mẻ. Dường như đây là lần đầu tiên Tràng cảm nhận được lòng mình đang rung lên niềm xúc động chân thành, thấm thía khi chứng kiến những sinh hoạt hết sức đời thường, bình dị. Được sống trong niềm hạnh phúc, cho nên chỉ cần chứng kiến "người mẹ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở", chỉ cần nghe thấy "tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía và cảm động. Hắn thấy hắn yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". "Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Miêu tả tâm lý tinh tế, sắc sảo, những trang viết thật chân thực và vô cùng xúc động. Tràng đã nhận thực sự hồi sinh về tâm hồn, đó là một tâm hồn rất nhạy cảm, biết rung động từ những điều giản dị, bình thường. Hắn đã có độ chín trong suy nghĩ, độ trưởng thành trong nhận thức về trách nhiệm của một người chồng, một trụ cột trong gia đình. Đó là biểu hiện của một người đàn ông trưởng thành nên người. Như vậy tình thương, niềm hạnh phúc đã giúp con người ta nên người hơn. Hay nói cách khác, con người ta thực sự nên người khi được sống trong niềm hạnh phúc. Đây là một tư tưởng nhân văn rất sâu sắc! Khi niềm hạnh phúc đã trào dâng, có lẽ đôi mắt và tâm hồn của Tràng như đã sáng hơn và tinh hơn. Chính nhờ vậy, Tràng nhận ra sự thay đổi của thị và niềm hạnh phúc của mẹ. Khi tình yêu thương đã đánh thức, niềm hạnh phúc đã trào dâng, đôi mắt và tâm hồn của Tràng như đã sáng hơn và tinh hơn. Tràng đang nhìn bằng cặp mắt "xanh non, biếc rờn" nên đâu đâu cũng thấy đẹp, thấy cảm động và ý nghĩa. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng. Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.. Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy. Thị đã thay đổi là do được sống trong tình yêu thương, niềm hạnh phúc hay là do thị đã tu chí? Mẹ Tràng, cũng chút bỏ được khuôn mặt bùng beo u ám mà thay vào đó là sự nhẹ nhõm, tươi tỉnh và rạng rỡ hẳn lên. Tràng đã nhìn bằng đôi mắt tích cực, đôi mắt của tình yêu thương, sự trân quý những gì anh đang có, đang được hưởng. Đoạn văn khá đặc sắc đã diễn tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Tràng trong niềm hạnh phúc trào dâng. Góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện Thông qua số phận con người trong nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân khẳng định trong cái đói, cái khát, cái chết cận kề con người ta vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, vẫn hướng đến sự sống khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình. Để tạo nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, tác giả đã tạo nên một tình huống truyện độc đáo, éo le, xây dựng đối thoại sinh động, hấp dẫn, ngôn ngữ quê kiểng nhưng sử dụng rất đắc địa, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Điều đặc sắc nhất của đoạn trích là tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế bằng sự hiểu biết của một con người vốn là con đẻ của đồng ruộng, bằng tấm lòng của một nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy". Nét đặc sắc của đoạn trích chính là việc tác giả đã miêu tả tâm trạng của Tràng rất tinh tế, sâu sắc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, những con người trong nạn đói cũng không bao giờ từ bỏ khát vọng sống, vẫn luôn tìm được lý do để vươn lên cái đói, cái khát, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng. Đây là điểm sáng trong cách tiếp cận những người nông dân trong nạn đói của nhà văn Kim Lân. Chính điều này tạo lên điểm sáng nhân văn, thứ ánh sáng đủ sức nâng giấc những con người cùng đường tuyệt lộ. Nhà văn Sê – khốp từng khẳng định Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như thế nào thì văn chương cũng vậy. Nhà văn chân chính phải đứng trong lao khổ để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm, nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Kim Lân đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những nỗi đau của con người và cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời thể hiện sự nâng niu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người. Thể hiện ở tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận của con người trong nạn đói. Lên án, tố cáo thực dân Pháp và phát xít Nhậtn đã đẩy con người vào nạn đói thảm khốc. Trân trọng, trân trọng và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân đang đứng bên bờ vực cái chết. Nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích cực cho người dân khốn cùng. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Qua đó, ta thấy được tấm lòng đôn hậu, yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đúng như báo online Tuổi trẻ đã khẳng định "Từ trong bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn thiết tha, cảm động" Báo online Tuổi trẻ - chuyên đề 4 Văn xuôi kháng chiến. Chính giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc và cao cả đã tạo nên sức sống mãnh liệt của truyện ngắn Vợ nhặt, tác phẩm đã chạm đến trái tim bạn đọc nhiều thế hệ, đã làm hồi sinh những tâm hồn chai sạn trước sương gió cuộc đời, Đoạn văn đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn Tràng rất tinh tế, nhân văn, cùng với đó cũng hiện lên hình ảnh của những nạn nhân xấu số của nạn đói năm 1945 Ngay trên bờ vực cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau như Kim Lân đã tâm sự "Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống". Last edited by a moderator 12 Tháng ba 2023 Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 09/05/2019, 1817 Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng màu hè sáng lóa xói và hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗngvừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươn mươn niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rá mùn tung bành ngay lối đi đã hót vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, nhận của anhchị về sự thay đổi của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Liên hệ với sự thay đổi của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016 để thấy được tấm lòng của các nhà văn dành cho những người dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm thêm tại https Sáng hôm sau mặt trời lên sào Tràng trở dậy Trong người êm lửng lơ người vừa giấc mơ Việc có vợ đến hơm ngỡ ngàng Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước sân Ánh nắng buổi sáng màu hè sáng lóa xói hai mắt cay sè Hắn chớp chớp liên hồi cái, bỗngvừa nhận ra, xung quanh có vừa thay đổi mẻ, khác lạ Nhà cửa, sân vườn, hôm quét tước, thu dọn gọn gàng Mấy quần áo rách tổ đỉa vắt khươn mươn niên góc nhà thấy đem sân hong Hai ang nước để khơ cong gốc ổi kín nước đầy ăm ắp Đống rá mùn tung bành lối hót Ngồi vườn người mẹ lúi húi giẫy búi cỏ mọc nham nhở Vợ quét lại sân, tiếng chổi nhát kêu sàn sạt mặt đất Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường lại thấm thía cảm động Bỗng nhiên thấy thương yêu gắn bó với nhà Hắn có gia đình Hắn vợ sinh đẻ Cái nhà tổ ấm che mưa che nắng Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập lòng Bây thấy nên người, thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ sau Hắn chạy sân, muốn làm việc để dự phần tu sửa lại nhà.” Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, Cảm nhận anh/chị thay đổi nhân vật Tràng đoạn trích Liên hệ với thay đổi Chí Phèo từ gặp Thị Nở Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016 để thấy lòng nhà văn dành cho người dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Xem thêm tại - Xem thêm -Xem thêm Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào tràng mới trở dậy, Từ khóa liên quan tập đọc nhạc số 2 mặt trời lên em hát gọi mặt trời lên beat em hát gọi mặt trời lên lời bài hát em hát gọi mặt trời lên bài tập tính ngày mặt trời lên thiên đỉnh tinh mat troi len thien dinh em hát gọi mặt trời lên mp3 bai tap tinh mat troi len thien dinh tinh thoi gian mat troi len thien dinh cong thuc tinh gio mat troi len thien dinh tinh mat troi len thien dinh o ha noi cong thuc tinh ngay mat troi len thien dinh bài tập về tính ngày mặt trời lên thiên đỉnh công thức tính thời gian mặt trời lên thiên đỉnh giải thích hiện tượng mặt trời lên thiên đỉnh xác định các nguyên tắc biên soạn khảo sát chương trình đào tạo của các đơn vị đào tạo tại nhật bản xác định mức độ đáp ứng về văn hoá và chuyên môn trong ct các đặc tính của động cơ điện không đồng bộ đặc tuyến hiệu suất h fi p2 đặc tuyến tốc độ rôto n fi p2 thông tin liên lạc và các dịch vụ phần 3 giới thiệu nguyên liệu từ bảng 3 1 ta thấy ngoài hai thành phần chủ yếu và chiếm tỷ lệ cao nhất là tinh bột và cacbonhydrat trong hạt gạo tẻ còn chứa đường cellulose hemicellulose chỉ tiêu chất lượng 9 tr 25 Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau trong tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân cho ta thấy được sự thay đổi hoàn toàn cuộc sống cũng như suy nghĩ của anh Tràng về một tương lai tươi sáng hơn. Hy vọng rằng với bộ tài liệu này sẽ hữu ích hỗ trợ cho học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay để viết bài văn, ôn luyện để chuẩn bị cho các bài kiểm tra, ôn thi THPT Quốc gia, luyện thi đại học. Mời các em tham khảo bài viết dưới đây. Phân tích nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau Mẫu số 1 Kim Lân là cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám , tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào ông cũng có những tác phẩm hay. Với tấm lòng của một người vốn là con để của đồng ruộng, Kim Lân đã viết về nông thôn và người nông dân bằng tất cả sự cảm thông và yêu thương chân thành. Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, viết về đề tài nạn đói năm Ất Dậu 1945, kể lại chuyện một thanh niên nghèo nhặt vợ giữa lúc đói quay đói quắt .Nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt đã khẳng định một phát hiện của Kim Lân về người lao động Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích Sáng hôm sau , mặt trời lên bằng con sào ... tu sửa lại căn nhà. ” Sự thay đổi của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau vợ về nhà đã tiếp nối mạch diễn biến của câu chuyện, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với nhân vật của mình cũng là sự trân trọng sâu sắc với những người dân nghèo khổ nhưng có khát khao sống mạnh mẽ. Tác phẩm lấy bối cảnh xóm ngụ cư vào đỉnh điểm nạn đói năm Ất Dậu 1945. Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. Xóm ngụ cư như một bãi tha ma , chẳng còn bóng dáng của sự sống. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng - một thanh niên nghèo, kéo xe bò thu nuôi mình và nuôi mẹ già – lại lấy vợ. Việc Tràng nhặt vợ về đã làm nổi bật khao khát hạnh phúc , yêu thương của con người ngày đói. Trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối, khi đang cận kề bên miệng vực của cái chết ấy, người lao động Việt Nam vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn lạc quan hướng tới tương lai. Điều này được thể hiện rất rõ qua tâm trạng của nhân vật Tràng vào sáng hôm sau, sau khi Tràng nhặt vợ về. “ Sáng hôm sau , mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra ”. Không phải là nỗi lo âu khi đối diện với thực tại đen tối trước mặt. Không phải là cảm giác hối hận khi đã nhặt vợ về giữa những ngày đói khát. Ta chỉ thấy tâm trạng nhẹ nhõm, khoan khoái của một người đàn ông đang tràn ngập niềm hạnh phúc lứa đôi. Tràng đang hạnh phúc, hạnh phúc lớn và đột ngột đến ngỡ ngàng, đến không thể tin được “ Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải ” Nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm “ Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái , và bỗng vừa chợt nhận ra , xung quanh. Càng ngỡ ngàng hơn khi Tràng nhận thấy xung quanh khác lạ, mới mẻ, cửa nhà nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vất ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô ở dưới gốc cây đã kín nước đầy ăm ắp . Đống rác màn tung hoành ngay lối đi đã được hốt đi. Niềm vui dâng lên trong lòng. Toàn là những dấu hiệu vui, những dấu hiệu về một ngày mai tươi sáng hơn. Nếu chỉ nghĩ đến sự sống chết trước mặt, nếu không có niềm tin rằng mình sẽ thoát khỏi cái đói, nếu không khao khát một cuộc sống khấm khá hơn thì họ sẽ để mặc cửa nhà bừa bộn, nhếch nhác. Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng “ Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi những bụi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Hai người phụ nữ của cuộc đời hắn đang cặm cụi quét tước, thu dọn cửa nhà. “Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại ất thấm thía cảm động. Hạnh phúc, quả thực, đến từ những điều rất nhỏ ”. Niềm vui, niềm hạnh phúc đã đem đến sự đổi thay kì diệu trong tâm hồn Tràng “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Nhà không là sự vật hữu hình, cụ thể, nhà còn là gia đình, là tổ ấm. Từ giờ trở đi “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng - nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Chỉ trong một đoạn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến vui sướng tột cùng khi biết mình đã có gia đình. Một niềm vui thật cảm động, cả hiện thực như xen lẫn giấc mơ. Niềm vui như nhân đội, bởi bên cạnh hạnh phúc lứa đôi, Tràng còn có thêm một niềm hạnh phúc to lớn nữa - hạnh phúc gia đình. Anh chàng cục mịch, khù khờ thường ngày vụt trở nên sâu sắc. Hạnh phúc như khiến con người ta trưởng thành hơn trong cảm xúc. Hạnh phúc còn khiến con người trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiệm của người đàn ông với gia đình. Tràng nhận thấy ý nghĩa của cuộc đời chính là yêu thương, gắn bó và chăm lo cho những người thân. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân , hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Chi tiết hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà ” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây ngô sang nhận thức. Rõ ràng, khát vọng hạnh phúc ở con người lớn hơn cái đói và cái chết. Đó là lí do dẫn đến cái kết“. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới ” của câu chuyện. Nhân vật Tràng trong đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung là một phát hiện của nhà văn Kim Lân về người lao động Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Khát khao ấy mạnh hơn cái đói, cái chết. Phát hiện này làm nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm. So với những tác phẩm viết về người lao động trước Cách mạng, Vợ nhặt mang đến một giá trị mới mẻ hơn. Nhà văn không chỉ thấy nỗi khổ của con người và vẻ đẹp tâm hồn của họ mà còn nhìn thấy tương lai và con đường sống tất yếu của họ. Cho dù đang đứng , lao động Việt Nam vẫn tràn đầy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, vẫn tin trường, tin miệng vực của cái đói, cái chết, cho dù bị dồn đuối đến bước đường cùng thì người dân vẫn tin vào một tương lai tươi sáng hơn. Nhà văn Kim Lân đã nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người.” Phân tích nhân vật Tràng vào sáng hôm sau Mẫu số 2 Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông phải kể đến trong truyện ngắn Vợ nhặt. Trong truyện, tác giả đã xây dựng nhân vật Tràng, đặc biệt trong đoạn sáng hôm sau khi có được vợ. Trong truyện, nhân vật Kim Lân đã xây dựng nhân vật Tràng có hoàn cảnh sống là người dân xóm ngụ cư, cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn. Anh ta làm nghề kéo xe bò thuê lên tỉnh. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình hoàn toàn đổi khác. Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Bản thân Tràng cũng không tin rằng mình đã có được vợ. Rồi Tràng chắp hai tay ra sau lưng, bước ra sân. Anh nhận ra sự xung quanh mình mọi thứ đều có sự thay đổi vô cùng lớn “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch”. Căn nhà dường như được khoác lên mình một chiếc áo mới. Những cảnh tượng thật ấm cúng hiện ra trước mắt của Tràng “Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Chỉ là một cảnh tượng thật giản dị, nhưng lại khiến cho Tràng thấy cảm động. Nếu như trước khi có vợ, Tràng chỉ là một anh con trai xấu xí, cục mịch lại có phần dở hơi. Thì sau khi có vợ, Tràng đã hoàn toàn thay đổi về nhân thức. Anh cảm nhận được trách nhiệm của một người chồng, cảm thấy yêu thương cái gia đình của mình đến lạ lùng. Trong suy nghĩ của anh tự nhủ “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Và suy nghĩ như vậy, Tràng liền hành động “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Kim Lân đã thật tinh tế khi khắc họa sự thay đổi của nhân vật Tràng, không chỉ là vẻ bên ngoài mà còn là sự nhận thức bên trong. Đặc biệt hơn cả là trong bữa ăn đầu tiên sau khi có vợ. Tràng đã nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ hoàn toàn khác. Không còn cái vẻ đanh đá trước đó, mà là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Tràng cũng thấy mẹ của mình tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Dù bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn rất ngon miệng. Trong bữa ăn, khi nghe mẹ tính chuyện tương lai, Tràng chỉ vâng. Tiếng vâng của anh cho người đọc cảm nhận được không khí ấm cúng, hòa hợp trong gia đình chưa từng có trước đó. Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi Thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”. Thì Tràng cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát. Điều đó phần nào vẫn cho thấy nét trẻ con trong hành động của Tràng. Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Điều đó giống như là những hy vọng của Tràng vào một tương lai tươi sáng với sự đổi thay giải phóng họ khỏi cuộc đời khổ cực. Như vậy, người vợ nhặt đã giúp Tràng có những thay đổi sau sắc về nhận thực. Truyện ngắn Vợ nhặt đã cho thấy tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Phân tích nv Tràng sáng hôm sau Mẫu số 3 Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã xây dựng được hình ảnh nhân vật Tràng, với những nét diễn biến tâm lí sâu sắc, đặc biệt là trong đoạn sáng hôm sau, khi Tràng có vợ. Tràng vốn là một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Kim Lân đã khéo léo miêu tả diễn biến hình ảnh Tràng trong sáng hôm sau. Anh cảm thấy “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Điều đó cho thấy rằng bản thân Tràng cũng không tin được chuyện mình có vợ là sự thật. Chỉ đến khi nhìn xung quanh, nhận thấy mọi thứ thay đổi. Từ nhà cửa được quét dọn sạch sẽ, gọn gàng. Quần áo mọi khi vẫn vứt một chỗ nay đã được đem ra phơi. Hai cái ang nước cũng được đổ đầy. Đống rác cũng được dọn sạch. Căn nhà khi chỉ có hai mẹ con Tràng thì lụp xụp, thảm hại. Dường như có bàn tay của người phụ nữ đã thay đổi hoàn toàn. Và rồi cảnh tượng đẹp đẽ nhất hiện ra trước mắt Tràng. Ở ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Còn vợ anh thì đang quét lại cái sân. Nhìn thấy cảnh tượng đó, Tràng mới nhận ra rằng chuyện mình có vợ là thật. Và từ đó, nhận thức của anh cũng hoàn toàn thay đổi. Tràng tự nhủ “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng đã ý thức được trách nhiệm của một người chồng. Bởi vậy mà tiếp tục hành động “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Việc Tràng có vợ đã khiến cho anh thêm trưởng thành hơn. Cho đến bữa ăn đầu tiên, điều đó lại tiếp tục được thể hiện. Tràng đã nhận ra sự thay đổi trong hình ảnh người vợ nhặt. Thị không còn cái vẻ đanh đá trước đó, mà là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Anh nhận thấy khuôn mặt bủng beo của mẹ trở nên tươi tỉnh hơn, khác hẳn với ngày thường. Dù bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn rất ngon miệng. Trong bữa ăn, khi nghe mẹ tính chuyện tương lai, Tràng chỉ vâng. Nhưng tiếng vâng lại thể hiện được sự hòa hợp, ấm cúng chưa từng có được của gia đình Tràng. Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Đó giống như là niềm tin vào một tương lai tươi sáng với việc tìm đến ánh sáng của cách mạng. Như vậy, nhà văn Kim Lân đã khắc họa hình ảnh nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau khi có vợ với những nét diễn biến chân thực. Có thể thấy, người vợ nhặt đã khiến Tràng thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Phân tích nhân vật Tràng buổi sáng hôm sau Mẫu số 4 Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Truyện kể về anh cu Tràng - một người nông dân hiền lành chất phác trong hoàn cảnh khó khăn lại có được hạnh phúc. Kim Lân đã xây dựng thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này, đặc biệt ở đoạn sáng hôm sau khi Tràng có vợ. Trong truyện, Tràng được Kim Lân xây dựng là người dân xóm ngụ cư. Anh sống cùng mẹ già trong căn nhà “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Công việc của anh là kéo xe bò thuê. Ngoại hình xấu xí “hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. Bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí mà còn có ngờ nghệch “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”. Một người như Tràng trong hoàn cảnh như vậy chẳng ai nghĩ rằng sẽ có được vợ. Vậy mà Tràng lại nhặt được vợ, điều đó đã khiến Tràng trở nên thay đổi. Trong buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy đã cảm nhận được sự thay đổi. Anh cảm nhận được niềm vui khi nhìn mẹ và vợ quét dọn nhà cửa. Mẹ anh thì đang nhổ cỏ vườn. Còn vợ đang quét sân, tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, Tràng cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây Tràng đã có một gia đình, anh sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng Tràng. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng anh. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Và “Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình. Đặc biệt là bữa ăn đầu tiên khi Tràng có vợ, bữa ăn trông thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn rất ngon miệng. Trong bữa ăn, khi nghe mẹ tính chuyện tương lai, Tràng chỉ vâng. Tiếng vâng của anh cho người đọc cảm nhận được không khí ấm cúng, hòa hợp trong gia đình chưa từng có trước đó. Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi Thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”. Thì Tràng cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát. Điều đó phần nào vẫn cho thấy nét trẻ con trong hành động của Tràng. Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Hình ảnh thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng hơn khi Tràng được biết đến ánh sáng của cách mạng. Như vậy, nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau đã bộc lộ sự thay đổi về tâm trạng và suy nghĩ. Người vợ nhặt đã giúp Tràng có được những thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Phân tích tâm trạng của Tràng vào sáng hôm sau Mẫu số 5 Truyện ngắn Vợ nhặt đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, Kim Lân còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nhân vật Tràng được Kim Lân khắc họa với những diễn biến tâm trạng, đặc biệt là trong đoạn sáng hôm sau khi Tràng có vợ. Nhân vật chính trong truyện Vợ nhặt là một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên. Sau đó bà đã đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Buổi sáng hôm sau có vợ, Tràng sung sướng trong men say của hạnh phúc đôi lứa. Trong người Tràng cảm thấy “êm ái lửng lơ” như người vừa từ giấc mộng bước ra. Kim Lân đã thật tinh tế khi miêu tả “một cảm giác ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Có thể thấy tình yêu đã đem đến một sức mạnh diệu kì, làm thay đổi một con người. Hạnh phúc đến quá bất ngờ khiến Tràng cảm thấy “ngỡ ngàng như không phải” Sự ngạc nhiên đó là hoàn toàn hợp lí, bởi một người như Tràng trong hoàn cảnh nghèo đói lại có được vợ. Chẳng ai ngờ rằng chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện trọng đại trong đời người lại được quyết định từ một câu hò vu vơ và bốn bát bánh đúc. Nhưng chính từ việc đó mà Kim Lân đã cho người đọc thấy được tình cảnh thảm hại của người nông dân Việt Nam lúc bây giờ. Và không chỉ ngạc nhiên khi có được vợ, Tràng còn ngạc nhiên khi thấy căn nhà của mình hoàn toàn thay đổi. Người đàn bà đó đã xuất hiện trong gia đình Tràng khiến cho căn nhà thay đổi. Dưới bàn tay vun vén của mẹ và vợ Tràng, ngôi nhà trước đây rách nát, đã trở thành một mái ấm “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Bản thân Tràng cũng ý thức được sự thay đổi đó khi thấy “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ” . Dường như tình yêu đã khiến anh ta trở nên thay đổi. Khi nhìn thấy hình ảnh người mẹ lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở, nghe âm thanh tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất của vợ, lòng anh ta dấy lên nỗi niềm “thấm thía cảm động”, “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Từ nhận thức mình đã có gia đình, Tràng nghĩ đến những điều xa xôi hơn “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đó là khát vọng hết sức bình thường của con người. Không chỉ vậy, Tràng còn ý thức được trách nhiệm của mình “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Tràng cảm thấy “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Và không chỉ bằng suy nghĩ mà Tràng còn hành động ngay “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Đó là hành động thể hiện được sự chuyển biến lớn trong nhân vật này. Chính niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu thương, tình mẹ con vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm trong lòng hắn biết bao ước vọng về hạnh phúc, bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn. Tràng còn nhận thấy khuôn mặt bủng beo của mẹ trở nên tươi tỉnh hơn, khác hẳn với ngày thường. Đặc biệt, dù bữa ăn ngày đói thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn vẫn rất ngon miệng. Khi nghe mẹ bàn tính chuyện tương lai, Tràng chỉ “Vâng”. Một tiếng “Vâng” nhưng thể hiện được sự ấm áp, hòa hợp của gia đình. Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Đó giống như là niềm tin vào một tương lai tươi sáng với việc tìm đến ánh sáng của cách mạng. Qua đoạn sáng hôm sau, Kim Lân đã cho thấy sự chuyển biến của nhân vật Tràng theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Tác phẩm Vợ nhặt đã gửi gắm những ý nghĩa nhân văn cao cả. Dàn ý phân tích nhân vật Tràng sáng hôm sau Mở bài - Giới thiệu về nhà văn Kim Lân, cùng truyện ngắn “Vợ nhặt”. - Giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng trong truyện. Thân bài 1. Giới thiệu đôi nét về Tràng - Người dân xóm ngụ cư cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn. - Nghề nghiệp kéo xe bò thuê. - Ngoại hình xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, lại thô lỗ… 2. Tóm tắt lại truyện đến đoạn sáng hôm sau Tràng - một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. 3. Phân tích Tràng trong đoạn sáng hôm sau a. Buổi sáng tỉnh dậy Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà sân vườn, ang nước, quần áo…. Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn. b. Trong bữa cơm đầu tiên sau khi có vợ Khi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng thấy. Khi cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. => Người vợ đã khiến Tràng thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Kết bài Khái quát lại tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ, khẳng định lại giá trị của tác phẩm Vợ nhặt. ►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải về Phân tích nhân vật Tràng trong sáng hôm sau trong tác phẩm "Vợ nhặt" - Kim Lân siêu hay file PDF hoàn toàn miễn phí. dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúngnó liệu có hơn bố mẹ trớc kia không ?... Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi lão nhìn ngời đàn bà, lòng đầy thơng xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Ngời đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bàlão hạ thấp giọng xuống thân mật Kể có ra làm đợc dăm ba mâm thì phải đấy, nhng nhà mình nghèo, cũng chả ai ngời ta chấp nhặt chi cái lóc nµy. Cèt lµm sao chóng mµy hoµ thn lµ umừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thơng quá. ..Bà cụ nghẹn lời không nói đợc nữa, nớc mắt cứ chảy xuống ròng một đoạn Cảnh gia đình trớc khi đi ngủ. Tràng và vợ sợng sùng chẳng biết nói xóm có tiếng hờ khóc vẳng đến từ những gia đình có ngời chết Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong ng ờiêm ái lửng lơ nh ngời vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng nh không chắp hai tay sau lng lững thững bớc ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồimấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vờn hôm nay đều đợc quét tớc, thu dọn sạch sẽ gọngàng. Mấy chiếc quần áo rách nh tổ đỉa vẫn vắt khơm mơi niên1ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nớc vẫn để khô cong ở dới gốc ổi đãkín nớc đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vờn ngời mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắnquét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh t ợng thật đơn giản, bình thờng nhng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiênhắn thấy hắn thơng yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà nh cái tổ ấm che ma chenắng. Một nguồn vui sớng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên ngời, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ consau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn mơi niên khẩu ngữ có tính chất dân dã rất lâu cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Vâng. Ngời đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõràng là ngời đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn1nh mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không ? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tơi tỉnh khác ngày thờng, cái mặtbủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn2thu dọn, quét tớc nhà cửa. Hình nh ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộcđời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùmrau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bµ lo nãi toµnchun vui, toµn chun sung síng vỊ sau này Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếpkia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Cha bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp nh thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừnglại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi ngời đợc có lng lng hai bát đã hết nhẵn. Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi3vừa khuấy khuấy vừa cời Chè đâyBà lão múc ra một bátChè khoán4đây, ngon đáo để cơ. Ngời con dâu đón lấy cái bát đa mắt lên nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thịđiềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đa cho, ngời mẹ vẫn tơi c- ời đon đả 1Chỏng lỏn nói năng đanh đá, xấc xợc, trái nghĩa với dịu dàng, lễ xắn mau mắn, hăng tiếng địa phơng khoán một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành từng miếng. Đây là tiếng địa phơng vùng quê tác giả ở nhiều nơi khác gọi là chè Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà cònchả có cám mà ăn đấy. Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngaylại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờnlen vào tâm trí mọi Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạocao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lợn thành từng đám bay vẩn trên nền trời nh những đám mây con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng Trống gì đấy, u nhỉ ? Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua đợc đâu các con ạ... Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dámđể con dâu nhìn thấy bà khóc. Ngời con dâu có vẻ lạ lắm, thị lẩm bẩm ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à ?Im lặng một lúc thị lại tiếp Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang ngời ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Ngời ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho ngời đói nữa thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những ngời phá kho thóc hỏi vội trong miếng ăn Việt Minh phải không ? ừ, sao nhà biết ? Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những ngời nghèo đói ầm ầm kéonhau đi trên đê Sộp. Đằng trớc có lá cờ đỏ to kho thóc Nhật ảnh Thông tấn xã Việt Nam Võ An NinhHôm ấy hắn láng máng nghe ngời ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cớp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối ra họ đi phá kho thóc chia cho ngời đói. Tự dng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng óc Tràng vẫn thấy đám ngời đói và lá cờ đỏ bay phấp phới... Truyện ngắn Việt Nam 1945 -1985, NXB Giáo dục, 1985Hớng dẫn học bài 1. Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm làm năm phần có đánh số ở vănbản tác phẩm. Anh chị hãy trình bày vắn tắt nội dung mỗi phần. Mạch lạc của truyện đợc dẫn dắt hợp lí nh thế nào ?2. Phân tích đoạn 1

sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào